YouTube: https://youtu.be/b43OqipmOoA
012 Bảy Biến Cố Quan Trọng Trước Kỳ Tận Thế – Phần 3
Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.
Bấm vào nút “play” ► để nghe:
Bấm vào nút “play” ► để nghe:
Bấm vào nối mạng dưới đây để tải xuống pdf bài viết này:
https://www.opendrive.com/folders?MV84OTQ4MjcwX1F1aXU1
1. Bấm vào nối mạng dưới đây để nghe và tải xuống âm thanh mp3 bài giảng này:
012_BayBienCo_3.mp3 – OpenDrive (od.lk)
2. Bấm vào nối mạng dưới đây để nghe và tải xuống âm thanh mp3 bài giảng này:
https://soundcloud.com/huynh-christian-timothy/sets/115_kytanthe
Phong Trào Ân Tứ (The Charismatic Movement) còn được gọi là Phong Trào Tân Ngũ Tuần (The Neo-Pentecostal Movement). Từ Phong Trào Ngũ Tuần phát sinh ra Phong Trào Ân Tứ. Phong Trào Ân Tứ nhấn mạnh đến các ân tứ của Đức Thánh Linh như: nói ngoại ngữ (nhưng đã bị hiểu lầm thành “nói tiếng lạ” – xin độc giả ghi nhớ, “nói tiếng lạ” tức là phát ra những âm thanh vô nghĩa), nói tiên tri, nói lời khôn sáng, nói lời hiểu biết, chữa bệnh, đuổi quỷ, làm phép lạ… (I Cô-rinh-tô 12:8-10). Phong Trào Ân Tứ ảnh hưởng đến Hội Thánh mạnh mẽ hơn Phong Trào Ngũ Tuần. Ban đầu, Phong Trào Ân Tứ không chủ trương cho các thành viên tách rời khỏi các giáo hội, giáo phái như Phong Trào Ngũ Tuần, nhưng chủ trương cho các thành viên ở lại để Ân Tứ hóa toàn bộ giáo hội và giáo phái mà họ đang sinh hoạt với. Chỉ khi nào bị chính các giáo hội hay giáo phái khai trừ thì các thành viên của Phong Trào Ân Tứ mới đi ra lập thành nhóm khác. Về sau, với sự lớn mạnh của phong trào, các nhà lãnh đạo Ân Tứ muốn độc lập điều hành ngân quỹ do các thành viên đóng góp, cho nên, đã lập ra các giáo phái riêng.
Vào năm 1960, Dennis Bennett, linh mục của nhà thờ Giám Nhiệm Thánh Mác (Saint Mark’s Episcopal Church) tại Van Nuys, California, thuộc Giáo Phái Giám Nhiệm Hoa Kỳ (American Episcopal) tuyên bố với hội chúng rằng, ông ta đã được báp-tem bằng thánh linh. Sau đó, Bennett dẫn thêm 100 tín hữu đến với kinh nghiệm nhận “báp-tem bằng thánh linh” và biết “nói tiếng lạ”. Hiện tượng “nói tiếng lạ” bùng nổ tại nhà thờ Giám Nhiệm Thánh Mác khiến cho các tạp chí Times và Newsweek thời bấy giờ làm phóng sự đưa lên bìa báo (cover story). Giáo Phái Giám Nhiệm Hoa Kỳ không công nhận hiện tượng đó đến từ Đức Thánh Linh nên đã bãi nhiệm Bennett. Ông đến Vancouver, Canada thiết lập nhiều lớp huấn luyện, dạy về công vụ của Đức Thánh Linh, gây ảnh hưởng sâu đậm đến tín đồ Anh Giáo khắp nơi trên thế giới, và dẫn đến những cuộc gọi là “phục hưng” trong các hội chúng Giám Nhiệm, Anh Giáo, Lutheran, Công Giáo và Chính Thống Giáo. Đến tháng 10 năm 1962 Phong Trào Tân Ngũ Tuần xâm nhập vào các trường đại học tại Mỹ, sau đó lan vào trong các trường Thần học. Chính Phong Trào Tân Ngũ Tuần đi vào Giáo Hội Công Giáo làm phát sinh ra Phong Trào Công Giáo Ân Tứ Phục Hưng. Tính đến năm 1990, phong trào này bao gồm trên 55 triệu tín đồ thuộc các giáo phái trong Giáo Hội Tin Lành.
Phong Trào Lời Đức Tin (Word of Faith Movement) được xem như sự nối dài của Phong Trào Ân Tứ. Ngoài những đặc điểm chung với Phong Trào Ân Tứ, Phong Trào Lời Đức Tin nhấn mạnh đến “quyền năng của đức tin”. Những người thuộc phong trào này tin rằng họ có thể dùng lời nói để điều động “quyền năng của đức tin”, và như vậy, họ có thể tạo ra những gì mà họ tin rằng Thánh Kinh đã hứa, như: sức khoẻ, sự giàu có… Theo họ, những định luật chi phối “quyền năng của đức tin” vận hành độc lập với ý chỉ siêu việt của Đức Chúa Trời và chính Đức Chúa Trời cũng bị chi phối bởi những định luật này (?) Ngoài ra, Phong Trào Lời Đức Tin còn đưa ra những tín lý như: Mỗi tín nhân là một Đức Chúa Trời Con vì Đức Chúa Trời dựng nên loài người cùng bản thể với Ngài. Tín đồ Đấng Christ phải được khoẻ mạnh và giàu có. Tín đồ Đấng Christ phải luôn có những lời tuyên xưng tích cực (positive confession). Vì Đức Chúa Trời đã dùng lời nói để sáng tạo nên tín nhân cũng có thể dùng những lời nói tích cực để thu đạt những kết quả tích cực. Đấng Christ chết phần thể xác, nhưng cũng chết phần tâm thần trong âm phủ, chịu Ma Quỷ hành hạ, và tâm thần của Ngài đã được tái sinh trong âm phủ…
Sáng lập viên và hiệu trưởng của trường Rhema Bible College tại Tulsa, Oklahoma, USA là Kenneth Hagin (1917-2003), được xem là bố già (Papa Hagin) của Phong Trào Lời Đức Tin. Những giáo sư nổi tiếng khác của phong trào này là: Benny Hinn, Bishop Eddie L. Long, Clarence McClendon, Creflo Dollar, Ed Young, Fred Price, Jesse Duplantis, John Bevere, Joel Osteen, Joyce Meyer, Juanita Bynum, Karl Strader, Kenneth Copeland, Kim Clement, Larry Huch, Marilyn Hickey, Markus Bishop, Mike Murdock, Morris Cerullo, Myles Munroe, Oral Roberts, Paul Crouch, Paula White, Peter Popoff, R.W. Shambach, Robert Schuller, Rod Parsley, Rodney Howard-Browne, Robert Tilton, Steve Munsey, T.D. Jakes…
Tháng 2 năm 1967, một số nhân viên và nhiều sinh viên của một trường đại học tư, Duquesne University, thuộc Giáo Hội Công Giáo tại Pittsburgh, Pennsylvania, USA trải qua một kinh nghiệm mà họ gọi là “được báp-tem bằng thánh linh”. Những điều họ kinh nghiệm, là: “nói tiếng lạ”, “thánh tiếu” (tiếng cười thánh – holy laughter), xuất thần, khóc, la, gào, hú, tru như chó… không thể tự kiềm chế. Liền sau đó, những hiện tượng này lan tràn sang một trường đại học tư khác, cũng thuộc Giáo Hội Công Giáo, University of Notre Dame, tại Indiana, USA. Notre Dame có nghĩa là “Đức Bà của chúng ta”, (chỉ về bà Ma-ri). Đến năm 2003, Phong Trào Công Giáo Ân Tứ Phục Hưng lan rộng đến trên 230 quốc gia và bao gồm trên 119 triệu tín đồ Công Giáo.
Các Giáo Hoàng: Paul VI (nắm quyền: 1963-1978), John Paul II (nắm quyền: 1978-2005), và Benedict XVI (nắm quyền: 2005-2013) đều chấp nhận Phong Trào Công Giáo Ân Tứ Phục Hưng. Giáo Hoàng John Paul II cho rằng, phong trào này thuộc vào sự phục hưng của toàn Giáo Hội Công Giáo. Giáo Hoàng Paul và Benedict khuyến cáo các thành viên của phong trào phải giữ gìn sự thông công giữa họ và Giáo Hội Công Giáo.
Tháng 3 năm 1992, Giáo Hoàng John Paul II đã phát biểu như sau: “Trong khoảnh khắc này của lịch sử giáo hội, sự Phục Hưng Ân Tứ có thể đóng một vai trò thiết yếu trong sự cổ vũ tính tự vệ rất cần thiết cho cuộc sống của người tín đồ Đấng Christ trong những xã hội mà thế tục và vật chất đã làm suy yếu khả năng đáp ứng Đức Thánh Linh và nhận thức tiếng gọi từ Đức Chúa Trời của nhiều người. Sự cống hiến của quý vị vào công cuộc tái phúc âm hóa xã hội sẽ được thực hiện trước hết qua lời chứng cá nhân về sự Đức Thánh Linh ngự trị bên trong và sự chiếu ra sự hiện diện của Ngài qua các công tác thánh khiết và hiệp một.”
(“At this moment in the Church’s history, the Charismatic Renewal can play a significant role in promoting the much-needed defense of Christian life in societies where secularism and materialism have weakened many people’s ability to respond to the Spirit and to discern God’s loving call. Your contribution to the re-evangelization of society will be made in the first place by personal witness to the indwelling Spirit and by showing forth His presence through works of holiness and solidarity.” – Address of Pope John Paul II to the ICCRO Council – March 14, 1992.)
Phần lớn người Công Giáo Ân Tứ tin rằng Phong Trào Công Giáo Ân Tứ Phục Hưng được phát sinh bởi lời cầu nguyện của Giáo Hoàng John XXIII trong Công Đồng Vatican II: “Lạy Đức Thánh Linh… xin tuôn tràn sự đầy dẫy các ân tứ của Ngài… Xin làm mới lại những sự lạ lùng của Ngài trong thời đại này như là một Lễ Ngũ Tuần mới.” (“O Holy Spirit… pour forth the fullness of your gifts… Renew your wonders in this day as by a new Pentecost”).
Điều đáng chú ý là Phong Trào Công Giáo Ân Tứ Phục Hưng không loại bỏ sự thờ lạy hình tượng của bà Ma-ri, sự lần chuỗi hạt Mân Côi, sự cầu nguyện với bà Ma-ri… cùng nhiều giáo lý phản Thánh Kinh khác của Giáo Hội Công Giáo. Nhiều nhóm Ân Tứ Công Giáo nhận được sự xuất thần và sự “nói tiếng lạ” trong khi kêu cầu bà Ma-ri (!)
Phong Trào Dấu Lạ (The Signs and Wonders Movement) hoặc “Làn Sóng Thánh Linh Thứ Ba” (The Third Wave of the Holy Spirit) bắt đầu vào đầu thập niên 1980 và vẫn còn kéo dài cho đến ngày nay. Các phong trào như: Vineyard Christian Fellowship, Global Harvest, Toronto Blessing, Eternal Grace là biến dạng của Phong Trào Dấu Lạ. Những người thuộc Phong Trào Dấu Lạ không chấp nhận họ thuộc về Ngũ Tuần hoặc Ân Tứ.
Điểm khác biệt nổi bật của Phong Trào Dấu Lạ đối với Ân Tứ và Ngũ Tuần là Phong Trào Dấu Lạ có khuynh hướng không nhấn mạnh đến sự kiện “nói tiếng lạ” như là bằng chứng của một người đã được báp-tem bằng thánh linh. Nhiều nhà lãnh đạo trong phong trào này không hề có kinh nghiệm “nói tiếng lạ”, trái lại, họ quan tâm đến khía cạnh dấu kỳ, phép lạ, các sự hiện thấy, sự nói tiên tri, cùng cái gọi là “lời nói thông biết” (the word of knowledge – được tận dụng trong chương trình truyền hình 700 Club của Pat Robertson trong sự tuyên bố các chi tiết về sự chữa lành xảy ra cho một số khán thính giả đang ngồi tại nhà riêng, xem chương trình 700 Club qua máy truyền hình). Phong Trào Dấu Lạ chấp nhận cả hai quan điểm về sự được báp-tem bằng thánh linh:
(1) Một người được tái sinh và được báp-tem bằng thánh linh khi thật lòng ăn năn tội và tin nhận Đấng Christ, (quan điểm của Tin Lành truyền thống). Những người thuộc Giáo Phái Vineyard Christian Fellowship bảo vệ tích cực quan điểm này.
(2) Một người được báp-tem bằng thánh linh nếu tìm cầu điều này sau khi tin nhận Chúa, (quan điểm của Ân Tứ và Ngũ Tuần). Báp-tem bằng thánh linh không liên quan đến sự cứu rỗi mà chỉ liên quan đến năng lực sống đạo và giảng đạo.
Peter Wagner (Global Harvest Ministry) và John Wimber (Vineyard Christian Fellowship) được xem là những nhân vật tiên phong của Phong Trào Dấu Lạ. Vào năm 1977, Carol, vợ của Wimber, vốn xuất thân từ Công Giáo, nằm chiêm bao thấy mình được đầy dẫy thánh linh và khi bà thức dậy thì biết “nói tiếng lạ”. Mười tháng sau, Wimber kinh nghiệm được một sự chữa lành trong chính thân thể của ông và bắt đầu tin rằng việc chữa bệnh, đuổi quỷ như Đức Chúa Jesus là khả thi. Nhờ quen biết với Peter Wagner, một giảng sư tại Fuller Theological Seminary School of World Missions mà Wimber được mời cùng dạy lớp “Dấu Lạ” (Signs and Wonders) tại Fuller Seminary với Wagner. Lớp học này dạy về sự chữa lành thiên thượng và trở thành lớp học nổi tiếng nhất tại Fuller cho đến khi bị đình chỉ vào năm 1985, vì các viên chức trong trường có những thắc mắc về tính Thần học và kinh viện của môn học.
Bên cạnh hiện tượng “bị giết trong thánh linh” như trong các Phong Trào Ân Tứ và Ngũ Tuần, có ba hiện tượng nổi bật trong Phong Trào Dấu Lạ được cho là sự thể hiện của Đức Thánh Linh, là: Tiếng Cười Thánh (The Holy Laughter – sự vui mừng khi được đầy dẫy thánh linh khiến một người trở thành “say thánh linh”, không kìm hãm được tiếng cười biểu lộ niềm vui), Tiếng Gầm Tiên Tri (The Prophetic Roar – tiếng rống lớn phát ra từ cổ họng của những người được đầy dẫy thánh linh, được cho là dấu hiệu Đức Chúa Trời thông báo sự kiện Ngài bắt đầu chiếm lại quyền tể trị thế giới này từ Sa-tan), và Âm Thanh của Thú Vật (The Animal Noises – sự tru, hú, gầm gừ như các loài thú, kể cả cục tác như gà, rống như heo, và tru như chó… chưa được những người Ân Tứ định nghĩa). Gần đây, Wimber đã yêu cầu các hội chúng thuộc giáo phái Vineyard Christian Fellowship do ông sáng lập ngưng chấp nhận hiện tượng Tiếng Cười Thánh.
Tin Lành đến Việt Nam vào năm 1911 do các giáo sĩ của Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp. Vào giữa thập niên 1960, các Giáo Phái Ngũ Tuần, và Giáo Phái Anh Em (Quaker) đem theo hiện tượng “nói tiếng lạ”, theo chân những người lính viễn chinh Hoa Kỳ đến Việt Nam, và tạo ra vài nhóm nhỏ tại Saigon nhưng không gây ảnh hưởng nhiều đến Hội Thánh Việt Nam. Phong Trào Ân Tứ đến Việt Nam vào cuối thập niên 1960 và bắt đầu trong Giáo Hội Công Giáo trước, qua Phong Trào Công Giáo Về Nguồn (do những người Công Giáo chủ trương quay lại với Lời Chúa, là Thánh Kinh, khởi xướng). Chính hiện tượng “nói tiếng lạ” trong Phong Trào Công Giáo Về Nguồn gây nhiều chú ý đến các mục sư và tín đồ thuộc Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Có một số sinh viên Tin Lành đã tham dự sinh hoạt với Phong Trào Công Giáo Về Nguồn và nhận được sự “nói tiếng lạ”. Nhiều sinh viên Tin Lành khác bắt đầu nghiên cứu về các Giáo Phái Ngũ Tuần. Điều đáng nói là thuở ấy tài liệu biện giáo thì ít, hầu như là không có, trong khi các tài liệu cổ võ về Phong Trào Ngũ Tuần thì tràn ngập, cho nên, các sinh viên chỉ học biết một chiều về những điểm tích cực của Ngũ Tuần. Hội Thánh Việt Nam, vào thời đoạn đó, phần lớn là tín đồ thuộc Giáo Phái Phúc Âm Liên Hiệp (với danh xưng chính thức là: Hội Thánh Tin Lành Việt Nam) đã tích cực chống đối các hiện tượng “đặt tay té ngã” và “nói tiếng lạ”. Ít lâu sau, một vài mục sư và tín đồ thuộc Hội Thánh Tin Lành Việt Nam nhận được sự “nói tiếng lạ” trong khi nhóm họp với các nhóm Công Giáo Về Nguồn, hoặc trong khi nhóm họp với các nhóm Anh Em (Quaker). Sau đó, một vài mục sư đã ly khai hoặc bị trục xuất khỏi Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, sáng lập các giáo phái Ngũ Tuần Việt Nam.
Năm 1972, tại Việt Nam có sự phục hưng phát sinh từ Thánh Kinh Thần Học Viện tại Nha Trang. Trong cuộc phục hưng đó, không có sự kiện té ngã, không có sự kiện “nói tiếng lạ” nhưng có sự tan vỡ cõi lòng, khóc lóc, ăn năn, xưng tội tập thể, đốt bỏ bùa chú, hình tượng, mọi người làm hòa với nhau, có sự chữa lành bệnh tật tức thì (không phải lành bệnh từ từ), có sự đuổi quỷ, có sự người chết được sống lại… nghĩa là có đầy đủ dấu hiệu Hội Thánh được đầy dẫy thánh linh như đã được ghi chép trong Thánh Kinh. (Xin xem “Phép Lạ Rừng Xanh”, Bà Phạm Văn Năm; “Việc của Đức Giê-hô-va”, Pastor Trương Văn Tốt; “Công Cuộc Truyền Giáo Tin Lành”, Pastor Phạm Xuân Tín). Trước khi Hội Thánh Việt Nam bị Phong Trào Ân Tứ xâm nhập và bị cường quyền đàn áp thì Đức Chúa Trời đã thương xót, cho Hội Thánh được nếm trải sự tuôn tràn thánh linh, để dựa vào đó mà phân biệt với hiện tượng “nói tiếng lạ” đến từ tà linh.
Sau năm 1975, Phong Trào Ân Tứ bắt đầu lan tràn khắp Miền Nam Việt Nam trong các nhóm Tư Gia, (những nhóm nhỏ nhóm họp thờ phượng Chúa tại nhà riêng để tránh sự đàn áp của chính quyền), và phát triển mạnh mẽ vào cuối thập niên 1990 nhờ các tài liệu về Ân Tứ được dịch ra Việt Ngữ và phổ biến trong các nhóm Tư Gia; đồng thời, có nhiều giáo sĩ Ân Tứ người Việt cũng như người ngoại quốc, từ nước ngoài âm thầm xâm nhập Việt Nam qua hình thức thăm quê hương và du lịch để quảng bá cho Phong Trào Ân Tứ. Trong giai đoạn đó, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam một mặt buộc phải hòa hoãn với chính quyền mới để được công nhận tư cách pháp nhân, một mặt các mục sư bị cán bộ và công an tôn giáo theo dõi chặt chẽ, cho nên, sinh hoạt của Hội Thánh dần dần bị giảm thiểu và khô cạn. Trong hoàn cảnh đó, những sứ giả của Ân Tứ và Ngũ Tuần càng nỗ lực phát triển mô hình nhóm nhỏ, nhóm tại tư gia và tích cực trong công tác truyền giáo. Có thể nói, số người tuyên xưng đức tin trong Đấng Christ thuộc các Hội Thánh Tư Gia phần lớn là tín đồ mới chứ không phải tín đồ từ Hội Thánh Tin Lành Việt Nam chuyển sang.
Đến cuối thập niên 1990, với sự tiếp sức của các giáo phái Ân Tứ và Ngũ Tuần Nam Hàn, với áp lực của các doanh nhân Nam Hàn trên chính quyền Việt Nam, không bao lâu, phong trào Tin Lành Tư Gia phát triển rầm rộ, xây cất nhiều cơ sở nhóm họp, gây tiếng vang trong và ngoài nước. Hiện nay, có thể nói, số thành viên thuộc các nhóm Ân Tứ và Ngũ Tuần tại Việt Nam nhiều hơn số thành viên thuộc Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.
Điều đáng chú ý là những người đi tiên phong trong các Phong Trào Ân Tứ và Ngũ Tuần tại Việt Nam thiếu sự hiểu biết về lịch sử và tín lý của các phong trào này, cho nên, tạo ra một nét đặc thù của Ân Tứ và Ngũ Tuần Việt Nam. Nét đặc thù đó là: Ân Tứ và Ngũ Tuần Việt Nam tổng hợp tất cả những đặc tính của các Phong Trào Ân Tứ và Ngũ Tuần phát sinh từ Hoa Kỳ. Đối với người Ân Tứ và Ngũ Tuần Việt Nam, bất cứ giáo sĩ, hoặc tài liệu, hoặc tài chính của bất cứ một giáo phái Ân Tứ và Ngũ Tuần nào từ Hoa Kỳ đến, đều được hoan nghênh nhiệt liệt. Người Ân Tứ và Ngũ Tuần Việt Nam chỉ dựa vào một mẫu số chung: hiện tượng “đặt tay té ngã” và “nói tiếng lạ”, cùng sự chữa bệnh, đuổi quỷ (!) Các giáo lý mới lạ được đón nhận dễ dàng dựa trên lý luận: điều đó nghe hợp lý và do “mục sư danh tiếng” giảng thì chắc là không sai. Điển hình là giáo lý về Tin Lành Thịnh Vượng (The Prosperity Gospel) do Kenneth Hagin, Benny Hinn, và Joel Osteen giảng dạy; giáo lý Chiều Kích Thứ Tư (The Fourth Dimension) do David (Paul) Yonggi Cho (quản nhiệm một hội chúng với số thành viên lên đến trên 850.000 người) khởi xướng.
Hội Thánh Việt Nam tại Hải Ngoại, đặc biệt là tại Đức và các nước thuộc khối Liên Xô cũ, cũng bị Phong Trào Ân Tứ xâm nhập mạnh mẽ. Một trong những lý do chính là: Cách thức nhóm họp, thờ phượng sôi nổi với các hiện tượng đặc thù của Ân Tứ, Ngũ Tuần như: “đặt tay té ngã”, “nói tiếng lạ”, và nhảy múa dễ thu hút những người Việt Nam phần lớn tha hương từ miền Bắc Việt Nam. Hai cánh đồng truyền giáo Việt Nam rất lớn tại Mã-lai và Nam Hàn cũng không thoát ra ngoài tình trạng nói trên.
Riêng tại Bắc Mỹ, cho đến giữa thập niên 2000, Ân Tứ và Ngũ Tuần rất khó xâm nhập vào Hội Thánh Việt Nam, bởi vì, phần lớn các Hội Thánh Việt Nam thuộc về các giáo phái truyền thống. Từ 2005 cho đến nay, tình hình đang chuyển hướng: hàng trăm mục sư thuộc các giáo phái truyền thống như Báp-tít và CMA cũng nghiêng về Phong Trào Ân Tứ, cho phép các mục sư Ân Tứ đến giảng và đặt tay cầu nguyện, chữa bệnh, đuổi quỷ trong Hội Thánh do mình quản nhiệm hoặc trong các Trại Bồi Linh do mình tổ chức.
Trước khi kết thúc phần nói về các Phong Trào Ân Tứ và Ngũ Tuần, thiết tưởng cũng nên nói đến chi tiết về hiện tượng xảy ra vào ngày 1 tháng 1 năm 1901 tại Trường Thánh Kinh Bethel, Topeka, Kansas để phân biệt với các hiện tượng xảy ra sau này trong các Phong Trào Ân Tứ. Khi nữ sinh viên Agnes Ozman đứng lên yêu cầu ông Hiệu Trưởng Charles Fox Parham đặt tay trên cô cầu nguyện để cô nhận được ân tứ nói ngoại ngữ thì Parham đã đáp ứng yêu cầu của cô. Liền khi đó, Ozman đã bật lên nói tiếng Trung Hoa (Quan Thoại) và suốt hai tuần sau đó, cô chỉ có thể nói và viết bằng tiếng Quan Thoại, là ngôn ngữ mà trước đó cô chưa từng biết đến. Trong vòng tuần lễ kế tiếp, chính Parham và các sinh viên khác cũng bắt đầu nói được các thứ tiếng ngoại quốc khác mà họ chưa bao giờ học biết. Sự kiện đó khiến cho Parham tuyên bố là thời đại Ngũ Tuần đã được tái diễn và ông chiêu mộ những người tình nguyện đi ra nước ngoài làm giáo sĩ, với lòng tin rằng, khi đến địa điểm truyền giáo, Đức Thánh Linh sẽ mở miệng các giáo sĩ rao giảng bằng thổ âm địa phương mà họ không cần phải học tập trước. Dĩ nhiên là Đức Thánh Linh đã không làm việc theo cách đó, công cuộc truyền giáo của Parham bị thất bại nặng nề, và khiến ông sửa đổi tín lý về việc “speak in tongues” như sau: “Một người được báp-tem bằng thánh linh thì phải biết nói ngoại ngữ và thứ ngoại ngữ đó không nhất thiết phải là một ngôn ngữ có người hiểu được.” Quan điểm này về sau tạo thành lỗ hổng cho sự kiện “nói tiếng lạ” cũng được xem là ân tứ nói ngoại ngữ (speak in tongues).
Người Mormon tôn cuốn Kinh Mormon có thẩm quyền ngang hàng với Thánh Kinh. Người Giê-hô-va Chứng Nhân tôn các tài liệu của Hội Tháp Canh có thẩm quyền ngang hàng với Thánh Kinh. Người Công Giáo tôn các truyền thống của giáo hội và những giáo lý do các giáo hoàng đưa ra có thẩm quyền ngang hàng với Thánh Kinh. Người Ân Tứ tôn các khải tượng, lời tiên tri của họ có thẩm quyền hơn cả Thánh Kinh. Thậm chí, họ không còn sống Đạo dựa trên Thánh Kinh nữa mà hoàn toàn dựa trên các khải tượng và các lời tiên tri của họ, cùng lời giảng của những người lãnh đạo phong trào. John Wimber, lãnh tụ của Phong Trào Ân Tứ Làn Sóng Thứ Ba, khi bị thách thức về tính phù hợp lời dạy của Thánh Kinh cho những hiện tượng xảy ra tại Yorba Linda, California, (như: la hét lớn tiếng, cười như mất trí, co giật như bị động kinh, té xuống ngất đi, miệng sủi bọt trắng, kêu khóc, tru, rống như thú vật…), đã tuyên bố: “Đức Chúa Trời ở trên Lời của Ngài” (God is above His Word) và “Đức Chúa Trời không bị giới hạn bởi Lời của Ngài” (God is not limited by His Word). Nói cách khác, John Wimber không cần dựa vào Thánh Kinh để xác chứng các hiện tượng.
Khi có ai đó tuyên bố bất cứ một điều gì có thẩm quyền ngang hàng với Thánh Kinh, thì đó là tà giáo và con dân Chúa cần phải tránh cho thật xa sự giảng dạy đó, vì ngoài Ba Ngôi Thiên Chúa, Thánh Kinh là thẩm quyền duy nhất và tuyệt đối trong đời sống của con dân Chúa. Bất cứ một điều gì không được Thánh Kinh dạy thì không thể biến đó thành tín lý và không nên giảng dạy, thực hành cho dù điều đó có vẻ hợp lý. Rô-ma 14:23 dạy: “Điều gì làm mà không bởi đức tin thì điều ấy là tội lỗi”, mà đức tin của tín đồ Đấng Christ là đức tin vào trong chính mình Đấng Christ và lời của Ngài là Thánh Kinh. Đức tin của tín đồ Đấng Christ không dựa vào những kinh nghiệm hoặc cảm xúc thiếu sự xác chứng của Thánh Kinh. Cho dù là tiếng phán nghe được trong nội tâm hay là khải tượng, chiêm bao đến từ một nhân vật sáng láng tự xưng là Chúa mà những tiếng nói đó, những khải tượng, chiêm bao đó không phù hợp với lẽ thật đã được bày tỏ trong Thánh Kinh thì dứt khoát chúng không đến từ Chúa. Thánh Kinh ghi rõ lời cảnh báo sau đây: “Và chẳng lạ gì, vì chính Sa-tan tự giả dạng thành thiên sứ của sự sáng.” (II Cô-rinh-tô 11:14).
Theo Thánh Kinh, khi một người thật lòng ăn năn tội và tin nhận Đấng Christ thì lập tức người đó được tha tội, được tái sinh, được báp-tem bằng thánh linh, được thánh hóa, được ban cho quyền trở nên con cái của Đức Chúa Trời, được lời hứa về sự sống đời đời, và được đồng kế tự với Đấng Christ.
“Chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép báp tem.” (Ê-phê-sô 4:5). Một Chúa là Đức Chúa Jesus Christ. Một đức tin là đức tin vào trong Đấng Christ, nghĩa là tin vào mọi lời Ngài phán, vào mọi việc Ngài làm. Một phép báp-tem là phép báp-tem nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà Đấng Christ đã truyền trong Ma-thi-ơ 28:19. Trong phép báp-tem đó, khi nhân danh Đức Thánh Linh thì tín nhân được chính Đấng Christ báp-tem vào trong thánh linh.
Sự kiện người thật lòng tin nhận Chúa liền được tái sinh và được báp-tem bằng thánh linh là một điều đương nhiên như khi một em bé vừa được sinh ra đời thì lập tức được nhúng chìm (báp-tem) vào trong bầu khí quyển, em bé chỉ việc hít thở không khí vào phổi. Sự kiện đầy dẫy thánh linh tùy thuộc vào lòng tin cậy và yêu mến Chúa của một người, như việc không khí có vào đầy buồng phổi của em bé hay không là tùy thuộc sự hít thở của em bé và sự thông suốt của đường hô hấp. Một người tin nhận sự cứu rỗi của Chúa nhưng chưa hết lòng yêu mến Chúa, vẫn còn lưu luyến hoặc chăm lo thế gian và những sự thuộc về thế gian thì không thể nào được đầy dẫy thánh linh. Những người như vậy, dù có được một ngàn người đầy ơn, đặt tay cầu nguyện cho cũng sẽ không bao giờ đầy dẫy thánh linh.
Mệnh lệnh của Chúa là: “Đừng say rượu, trong sự ấy là điều phóng đãng; nhưng phải được đổ đầy với linh.” (Ê-phê-sô 5:18). Ý nghĩa của mệnh lệnh này là đừng sống theo xác thịt, đừng chăm những sự thuộc về xác thịt, nhưng hãy sống theo thánh linh, chăm những sự thuộc về thánh linh (Rô-ma 8:5). Các sứ đồ của Chúa và các tín đồ của thời Hội Thánh mới thành lập đầy dẫy thánh linh vì họ đã bỏ hết mọi sự để đi theo Chúa, tích cực đáp lại lời kêu gọi của Ngài: “Rồi, Ngài gọi dân chúng với các môn đồ của Ngài, phán với họ: Ai muốn đến, theo Ta, người ấy hãy từ bỏ chính mình, vác thập tự giá của mình mà theo Ta.” (Mác 8:34). Xin lưu ý, đây là điều kiện dành cho mọi người: người đã tin Chúa (các môn đồ) lẫn người chưa tin Chúa (dân chúng). Họ đã bán hết tài sản để nhập làm của chung, sống yêu thương hiệp một với nhau trong danh Chúa (Công Vụ Các Sứ Đồ 4:32-35). Vì vậy, Hội Thánh được đầy dẫy thánh linh và Đức Thánh Linh được tự do hành động giữa Hội Thánh. Sự đầy dẫy thánh linh, vì thế, tùy thuộc vào tấm lòng của người tin Chúa chứ không tùy thuộc vào sự đặt tay cầu nguyện. Ngày nào Hội Thánh ăn năn tội, xưng nhận tội, bỏ hết mọi sự, đi theo Chúa với lòng sốt sắng yêu mến Chúa và yêu thương lẫn nhau như Hội Thánh lúc ban đầu, ngày đó Hội Thánh sẽ được phục hưng, sẽ được đầy dẫy thánh linh.
Sự kiện một tín đồ Đấng Christ chân thành khao khát được đầy dẫy thánh linh, được sống một đời sống sung mãn trong Đấng Christ, sinh ra nhiều bông trái thuộc linh, hoàn toàn xứng hiệp với thánh ý của Chúa. Sự khao khát chân chính đó sẽ được Đức Chúa Trời đáp ứng khi một người thật sự ở trong Đấng Christ và lời của Đấng Christ ở trong họ (Giăng 15:5, 7). Điều sai lầm là có những người chưa chịu từ bỏ nếp sống cũ tội lỗi, vẫn còn ưa thích thế gian và những điều thuộc về thế gian, nhưng lại muốn đầy dẫy thánh linh, muốn có được quyền năng và phép lạ để chứng tỏ “trình độ” thuộc linh của mình, để được loài người tôn vinh mình, chạy theo mình… như Thuật Sĩ Si-môn trong Công Vụ Các Sứ Đồ chương 8. Nếu không có sự ăn năn tội, xưng tội, từ bỏ thế gian, hết lòng vâng phục Lời Chúa thì các dấu kỳ, phép lạ có được, chẳng qua là đến từ Sa-tan, là kẻ mạo làm thiên sứ của sự sáng và những kẻ giúp việc nó (II Cô-rinh-tô 11:13-15). Dấu kỳ và phép lạ được làm ra trong danh Chúa không phải là bằng cớ xác chứng người làm ra chúng thuộc về Chúa. Chính nếp sống Đạo và các giáo lý đi ngược lại lẽ thật của Thánh Kinh của những người “nhân danh Chúa nói tiên tri, trừ quỷ, làm phép lạ… ” giúp cho Hội Thánh của Chúa nhìn ra những kẻ mang lốt chiên đến cùng Hội Thánh (Ma-thi-ơ 7:15-23).
Phần viết về các Phong Trào Ân Tứ và Ngũ Tuần trên đây được trích ra từ cuốn sách “Sự Thật về Hiện Tượng Nói Tiếng Lạ và Đặt Tay Té Ngã” của cùng tác giả [1].
Biến Cố 4: AntiChrist Xuất Hiện
Sự bội Đạo phải xảy ra trước để làm môi trường thích hợp cho sự xuất hiện của AntiChrist. Từ ngữ “hiện ra” được dùng trong II Tê-sa-lô-ni-ca 2:3 để nói về sự xuất hiện của AntiChrist, trong nguyên ngữ Hy-lạp là động từ “apokaluptō” (G601), phiên âm tiếng Việt là /a-bô-ca-lúp-tô/. Nghĩa đen của động từ này là “bày tỏ”. Thánh Kinh Tân Ước dùng từ ngữ này dưới hình thức thụ động, ngôi thứ ba số ít trong II Tê-sa-lô-ni-ca 2:3, vì thế, nếu dịch câu này cho sát nghĩa thì sẽ là:
“Vì trừ khi có sự bỏ Đạo đến trước, và có người tội lỗi, con của sự hư mất, được tỏ ra.”
Như thế nào là sự kiện AntiChrist được tỏ ra? Câu này có thể được giải thích bốn cách khác nhau như sau:
1. AntiChrist được sinh ra trong thế gian: Sự kiện AntiChrist được sinh ra trong thế gian là sự kiện hắn đã được tỏ ra cho Sa-tan, cho các tà linh, và cho một số các nhân vật quan trọng trên thế giới, là những người góp phần trong việc đào tạo, huấn luyện, tiếp trợ và chuẩn bị tư thế chính trị cho AntiChrist. Sự tỏ ra này không bắt buộc phải được sự nhận biết của toàn thế gian. Rô-ma 1:18 chép: “Cơn giận của Thiên Chúa từ trên trời tỏ ra nghịch lại mọi sự không tin kính và mọi sự không công chính của những người dùng sự không công chính mà đè nén lẽ thật.” Thế nhưng, không phải toàn thế gian đều nhận biết sự cơn giận của Thiên Chúa đã tỏ ra. II Tê-sa-lô-ni-ca 2:6 cho chúng ta biết thêm: AntiChrist sẽ được tỏ ra “trong hạn kỳ của nó” (Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống dịch là “đúng kỳ nó thôi”). Hạn kỳ của AntiChrist chính là toàn bộ thời gian của hắn từ khi hắn được sinh ra cho đến khi hắn bị Đức Chúa Jesus Christ ném vào hỏa ngục.
Nếu hiểu sự kiện AntiChrist được tỏ ra như trên đây thì chúng ta có thể tin rằng: AntiChrist đang có mặt trong thế gian và rất có thể hắn đã được sinh ra trong khoảng cuối thập niên 1960 hoặc đầu thập niên 1970. AntiChrist có thể đang nắm quyền lực chính trị trong một quốc gia nào đó. Thậm chí, AntiChrist có thể là đương kim Tổng Thống của Hoa Kỳ: Barack Hussein Obama. Chúng ta sẽ đi vào chi tiết dưới đây.
2. AntiChrist lên ngôi, cầm quyền: Chắc chắn, ngày AntiChrist cùng lúc lên ngôi, cầm quyền với 10 vua trong một giờ, theo như Khải Huyền 17:12 đã tiên tri thì tất cả những ai có đọc sách Khải Huyền đều nhận ra hắn.
3. AntiChrist tái cam kết hòa ước với nhiều nước: Tương tự như cách giải thích thứ nhì. Những ai có đọc Thánh Kinh và các bài giải luận lời tiên tri về AntiChrist trong Đa-ni-ên đều sẽ nhận ra hắn.
4. AntiChrist vào ngồi trong Đền Thờ Thiên Chúa và xưng mình là Đức Chúa Trời: Tương tự như cách giải thích thứ nhì và thứ ba.
Trong bốn cách giải thích trên đây, chúng ta nhận thấy cách thứ nhì có thể tiêu biểu cho các cách thứ ba và thứ tư. Vì vậy, sự chọn lựa chỉ còn là cách thứ nhất hoặc cách thứ nhì. Chúng tôi chọn cách giải thích thứ nhất vì nó hợp lý khi kết hợp câu 3 với câu 6 của II Tê-sa-lô-ni-ca 2, và khi so sánh với sự kiện Đức Chúa Jesus được tỏ ra khi Ngài giáng sinh. Khi Đức Chúa Jesus giáng sinh chỉ có vài mục đồng được thiên sứ báo tin cho biết và vài nhà thông thái từ đông phương nhận biết Ngài qua sự xuất hiện của một ngôi sao lạ.
Chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về AntiChrist trong phần nói về biến cố AntiChrist lên ngôi, cầm quyền một hệ thống chính quyền toàn cầu.
Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
Ghi Chú
Nếu không truy cập được các nối mạng dưới đây, xin vào https://server6.kproxy.com/, dán địa chỉ nối mạng vào ô tìm kiếm, rồi bấm nút surf!
[1] http://timhieutinlanh.com/biengiao/?p=53
Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible/.
-
Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.
-
Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.
Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/